Vì sao cơ thể lại phản ứng sau khi tiêm phòng vắc xin (vaccin)?

 Nhìn ở góc độ khoa học và phản ứng tâm lý của người được tiêm thử nghiệm.

Tại rất nhiều các diễn đàn, người ta bàn tán về các loại vắc xin tiêm chủng phòng ngừa Covis 19 xem mức độ an toàn đến đâu, hãng nào tốt, phản ứng phụ có nguy hiểm không và thời gian hiệu quả của vắc xin trong bao lâu; tại sao lại xảy ra các trường hợp sốc phản vệ hoặc tử vong không rõ nguyên nhân sau khi tiêm phòng….

Bất cứ ai trong số chúng ta đều trải qua giai đoạn tiêm phòng ít nhất một lần các loại vắc xin phòng dịch bệnh từ lúc lọt lòng cho đến ngày nay, nhưng có lẽ chưa bao giờ chúng ta lại quan tâm đến phản ứng của vắc xin như đối với vắc xin phòng ngừa Covis 19. Chỉ cần gõ vài từ khóa trên mạng internet hoặc bất kỳ nơi nào từ công sở hay tổ dân phố, đều nghe loáng thoáng thông tin bàn tán về vắc xin covis 19; cũng có nhiều người hỏi tôi về nội dung này và nhờ giải thích xem các hiện tượng ấy có nguy hiểm không hoặc tác dụng phụ lâu dài sau này như thế nào. Chính vì thế nên hôm nay tôi sẽ dành chút thời gian tổng hợp bài viết về quá trình thử nghiệm, phản ứng và nguyên nhân xảy ra đối với một số loại vắc xin đang sử dụng phổ biến hiện nay.

  1. Phản ứng của cơ thể đối với Vắc xin

Vắc xin phòng covis 19 là một loại thuốc. Do đó, nó được các quốc gia quản lý vô cùng nghiêm ngặt về quy trình nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất. Nhưng do các loại thuốc hiện nay đã qua quy trình thử nghiệm nên tôi không nêu chi tiết về quá trình này mà chỉ nêu sơ bộ về kết quả thử nghiệm trên người trước khi đưa ra thị trường.

Khi Moderna tiến hành các giai đoạn cuối để thử nghiệm vắc xin ở người, một nhà sinh học tên là Luke Hutchison, được đào tạo tại Viện Công nghệ Massachusetts, đã tình nguyện thử nghiệm vắc-xin COVID-19 của Moderna. Sau khi tiêm mũi thứ hai, cánh tay của anh ấy ngay lập tức sưng to bằng “quả trứng ngỗng” Hutchison nói. Anh ấy không thể chắc chắn rằng anh ấy đã tiêm vắc-xin chứ không phải giả dược, nhưng trong vài giờ, người đàn ông 43 tuổi khỏe mạnh lúc đó đã bị bao vây bởi những cơn đau nhức xương, cơ và cảm giác sốt 38,9°C, anh ấy nói, “không thể chịu nổi”, “tôi bắt đầu run”, “tôi đã có những cơn nóng vội và lạnh”  “tôi đã ngồi bên điện thoại cả đêm và suy nghĩ: ‘Mình có nên gọi 911 không”? Các triệu chứng của Hutchison hết sau 12 giờ.

Khi dịch bệnh có dấu hiệu phức tạp, nhiều quốc gia và các đơn vị  đều có nhu cầu được cung cấp vắc xin nhằm thoát ra khỏi các cuộc khủng hoảng. Thực tế, với việc công bố việc sản xuất được thuốc của một số hãng cũng như các cuốc gia như Anh, Mỹ, Nga, Trung Quốc…cho thấy các cuốc gia đã đạt được nhiều thành quả vượt trội, ngoài mong đợi. Mặc dù đa số các chuyên gia về sức khỏe đều đồng ý rằng tác dụng phụ của vắ xin được gọi là phản ứng, nhưng nó không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, Deborah Fuller, một nhà tiêm chủng tại Đại học Washington, Seattle, người có phòng thí nghiệm đang phát triển vắc xin RNA thế hệ thứ hai chống lại COVID-19 vẫn đặt câu hỏi: “thế còn khả năng gây phản ứng của vắc-xin thì sao? Mặc dù nó an toàn, [và] sẽ không gây ra bất kỳ vấn đề lâu dài nào… nhận thức đó sẽ đi với công chúng như thế nào khi họ bắt đầu tiếp nhận nó?”. Cô ấy lo lắng các tác dụng phụ có thể khiến người dùng do dự khi tiêm vắc-xin. Những lo ngại đó tiếp tục xuất hiện kể cả khi các hãng dược Moderna, Pfizer, BioNTech đồng thời thông báo rằng vắc-xin RNA (mRNA) của họ đạt hiệu quả 95% trong các thử nghiệm lâm sàng trên hàng chục nghìn người. Cả hai công ty cho biết thêm, các cuộc thử nghiệm không cho thấy mối quan tâm nghiêm trọng nào về an toàn.

Trên thực tế, những người tiêm vắc xin của xin Pfizer và Moderna vẫn gặp phải tình trạng như: đau nhức cánh tay, sốt và mệt mỏi. Tuy vậy, thông thường các phản ứng ấy đều mang đến cảm giác “khó chịu nhưng không nguy hiểm”. Có khoảng ít hơn 2% số người tiêm vắc xin bị sốt nặng từ 39°C đến 40°C. Hội đồng y khoa độc lập đã tiến hành phân tích tạm thời thử nghiệm của Moderna cho thấy tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm mệt mỏi ở 9,7% người tham gia, đau cơ ở 8,9%, đau khớp 5,2% và đau đầu 4,5%. Đối với vắc xin Pfizer / BioNTech, con số thấp hơn: Các tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm mệt mỏi (3,8%) và đau đầu (2%). Đây là một tỷ lệ phản ứng nghiêm trọng “cao hơn hầu hết các vắc-xin cúm, ngay cả những vắc-xin liều cao”. Arnold Monto, một nhà dịch tễ học tại Đại học Y tế Công cộng Michigan, cho biết. Nhưng phản ứng phụ cũng đồng nghĩa rằng “vắc xin đang hoạt động tốt. … [Nó] có nghĩa là bạn đã có phản ứng miễn dịch tốt và bạn đang thấy tác dụng của điều đó”.

  • Khả năng gây ra phản ứng sau khi tiêm

Khả năng phản ứng đề cập đến một tập hợp con các phản ứng xảy ra ngay sau khi tiêm chủng và là một biểu hiện vật lý của phản ứng viêm khi tiêm chủng. Trong các thử nghiệm lâm sàng, thông tin về các dấu hiệu và triệu chứng dự kiến ​​sau khi tiêm chủng được tích cực tìm kiếm (hoặc ‘trưng cầu’). 

Hàng ngàn loại vắc xin được tiêm mỗi ngày và phần lớn gây ra một số triệu chứng ở người tiêm. Những triệu chứng xảy ra sớm sau khi tiêm chủng thường nhẹ và tự giới hạn và hiếm khi để lại hậu quả y tế nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc hiểu rõ phạm vi các triệu chứng là quan trọng đối với người được chủng ngừa, đối với các chuyên gia y tế để có những khuyến cáo và xử lý phù hợp. Phần lớn các loại vắc xin hiện có được sử dụng qua đường tiêm. Các chuyên gia y tế có thể sử dụng kiến ​​thức về các triệu chứng có thể xảy ra sau khi tiêm chủng để chuẩn bị cho bệnh nhân về những điều sẽ xảy ra sau khi tiêm chủng, bao gồm cả những lợi ích và rủi ro của việc sử dụng thuốc hạ sốt để ngăn ngừa các triệu chứng, có khả năng dẫn đến cải thiện sự tuân thủ và chấp nhận các liều tiếp theo cao hơn.

Quan điểm hiện tại về lợi ích so với rủi ro của tiêm chủng đặt trọng tâm lớn vào tính an toàn. Đánh giá tiền lâm sàng điều tra các phản ứng tại chỗ tiêm và hồ sơ độc tính của vắc xin là điều kiện tiên quyết để bắt đầu các thử nghiệm lâm sàng trong đó thiết lập tính an toàn và hiệu quả của nó. Tuy nhiên, trong khi các nghiên cứu tiền lâm sàng là rất quan trọng để xác định các tín hiệu có thể ngăn cản việc sử dụng chúng ở người, thì việc đánh giá trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển lâm sàng là cần thiết để xác nhận tính an toàn của vắc-xin ở người. Việc thu thập dữ liệu an toàn có hệ thống trong các thử nghiệm lâm sàng tuân theo hướng dẫn của các cơ quan quản lý có thẩm quyền, chẳng hạn như Cơ quan Thuốc Châu Âu, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các nhà chức trách cũng tư vấn về quy mô của cơ sở dữ liệu an toàn cần thiết để cung cấp sự đảm bảo hợp lý rằng khả năng gây phản ứng và hồ sơ an toàn của vắc xin là có thể chấp nhận được.

Sau khi được cấp phép, sự an toàn của vắc xin được giám sát thông qua các hoạt động điều tra của nhóm do nhà sản xuất, cơ quan quản lý và các nhà nghiên cứu độc lập tiến hành, chẳng hạn như xem xét các báo cáo nhận được từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và các cơ quan quản lý trên toàn thế giới. Việc điều tra được nhắm mục tiêu xử lý kịp thời các tác dụng không mong muốn sau khi đưa vào sử dụng. Vắc xin chứa các kháng nguyên tạo ra phản ứng miễn dịch có khả năng bảo vệ cụ thể khỏi bệnh tật. Các kháng nguyên vắc xin riêng lẻ tạo ra các phản ứng miễn dịch bẩm sinh có thể khác nhau về chất hoặc định lượng tùy theo thành phần vắc xin, nhưng tạo ra phản ứng miễn dịch thích ứng tốt. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, các kháng nguyên vắc xin được nhận biết là mầm bệnh tiềm ẩn bằng các mẫu phân tử liên quan đến mầm bệnh được bảo tồn (PAMP) hoặc các mẫu phân tử liên quan đến tổn thương (DAMP), các thụ thể nhận dạng mẫu (PRR) bao gồm cả các thụ thể giống Toll (TLR) 5 được được tìm thấy trên các tế bào miễn dịch tuần hoàn cục bộ hoặc ngoại vi (ví dụ như bạch cầu đơn nhân và đại thực bào) và trên các tế bào mô đệm thường trú. 5 , 6Sự phiên mã của nhiều gen đích được đưa vào trong các tế bào này, dẫn đến tổng hợp và giải phóng các cytokine gây sốt (tức là interleukin [IL] -1, IL-6, yếu tố hoại tử khối u-alpha [TNF-α], và prostaglandin-E2) trong máu, bắt chước phản ứng với nhiễm trùng tự nhiên. Sau khi được kích thích, hệ thống miễn dịch sẽ bắt đầu một loạt các sự kiện miễn dịch bẩm sinh phức tạp có thể bao gồm thực bào, giải phóng các chất trung gian gây viêm, bao gồm chemokine và cytokine, kích hoạt bổ thể và tuyển dụng tế bào. Những hiện tượng này rất quan trọng để kích hoạt các phản ứng miễn dịch thu được mạnh mẽ với kháng nguyên đặc hiệu cần thiết để bảo vệ chống lại bệnh tật. Những hiện tượng viêm tương tự này cũng có thể dẫn đến sự phát triển của các dấu hiệu và triệu chứng của viêm tại chỗ tiêm (đau, đỏ và sưng) ở người được tiêm phòng. Các chất trung gian và các sản phẩm gây viêm trong tuần hoàn có thể ảnh hưởng đến các hệ thống cơ thể khác để gây ra các phản ứng phụ toàn thân (như sốt, mệt mỏi và đau đầu). Cần cân bằng giữa tác dụng có lợi và tác động có hại của các hiện tượng viêm này để duy trì khả năng sinh phản ứng ở mức có thể chấp nhận được về mặt lâm sàng.

  • Nguyên nhân của các triệu chứng

Tất cả các loại vắc-xin đều có chung khả năng kích hoạt các PRR dẫn đến sản sinh ra các chất trung gian khác nhau. PRR được biểu hiện bởi các tế bào miễn dịch, bao gồm bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, tế bào mast và tế bào đuôi gai, và các tế bào mô đệm thường trú, chẳng hạn như tế bào sừng và tế bào cơ xương. Tế bào thường trú, đặc biệt là đại thực bào và tế bào Mast, là những tế bào đích quan trọng bắt đầu phản ứng trong vòng vài phút sau khi tiêm chủng, giải phóng các cytokine gây viêm, chemokine, tác nhân của dòng bổ thể (C3a và C5a) và các chất giãn mạch, bao gồm các amin hoạt tính và bradykinin. Chemokine thúc đẩy quá trình tuyển chọn tế bào từ máu, nhưng cũng dẫn đến sự phát triển của mẩn đỏ và sưng. Các bạch cầu trung tính, bạch cầu đơn nhân và tế bào lympho có nguồn gốc từ máu bám vào thành mạch và tích tụ tại vị trí tổn thương thông qua thoát mạch. Các tế bào miễn dịch này có thể góp phần vào quá trình nhạy cảm cảm thụ ngoại vi bằng cách giải phóng các yếu tố hòa tan, chẳng hạn như cytokine, prostaglandin hoặc ATP, và tương tác trực tiếp với các tế bào cảm thụ (tế bào thần kinh cảm giác phản ứng với các kích thích có khả năng gây hại) để gây đau nếu đạt đến ngưỡng đau. Sau khi sản xuất, cytokine hoạt động cục bộ cả trong và hoạt động của cơ quan nội tiết và tuyến nội tiết, cơ quan thần kinh trung ương và có thể lan truyền phản ứng viêm đối với hệ thống thần kinh trung ương sau khi kích hoạt hệ thống miễn dịch.

Vắc xin bao gồm toàn bộ mầm bệnh hoặc (các) kháng nguyên được kết hợp khác nhau với tá dược, chất bảo quản, chất ổn định, tá dược khác và tàn dư của quá trình sản xuất. Tất cả các thành phần này, cũng như khối lượng chất lỏng được tiêm, có thể gây ra các triệu chứng khi tiêm. Tiêm thể tích lớn hơn 0,8 ml được báo cáo là gây đau nhiều hơn so với khi thể tích tiêm nhỏ hơn.

Vắc xin chứa virus sống đã được làm giảm độc lực chứa toàn bộ mầm bệnh được thiết kế để tái tạo trong cơ thể gây nhiễm trùng nhẹ, nó sẽ chứa một loạt các kháng nguyên và tác nhân kích hoạt miễn dịch bẩm sinh thường làm cho hệ thống miễn dịch tốt, nhưng có khả năng gây phản ứng cao hơn so với sự kết hợp của các kháng nguyên đã được tinh chế. Vắc xin chứa virus bị giết cũng chứa toàn bộ sinh vật đã bị giết bằng các biện pháp hóa học hoặc vật lý, và thường cũng có khả năng sinh miễn dịch cao và có khả năng gây phản ứng.  Tuy vậy, thường ít gây phản ứng hơn so với vắc xin toàn tế bào (bị tiêu diệt hoặc làm giảm độc lực) nhưng cũng có thể ít gây miễn dịch hơn, do đó cần bổ sung chất bổ trợ để khôi phục các yếu tố kích hoạt miễn dịch. Các đặc tính vật lý và hóa học của công thức vắc xin, chẳng hạn như pH, độ nhớt và điện tích của chất vắc xin có thể ảnh hưởng đến khả năng phản ứng. 

  • Thuốc dự phòng có phòng ngừa được các triệu chứng không

Mẫu phân tích tổng hợp của 13 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng kết luận rằng trong khi thuốc hạ sốt dự phòng làm giảm đáng kể các triệu chứng tại chỗ tiêm và các triệu chứng toàn thân sau khi tiêm chủng, việc sử dụng chúng có liên quan đến việc giảm đáp ứng của kháng thể với hầu hết các kháng nguyên vắc xin. Một đánh giá khác gần đây kết luận rằng thời điểm dùng thuốc hạ sốt là chìa khóa quan trọng, vì không thấy ảnh hưởng đến phản ứng kháng thể khi thuốc hạ sốt được dùng như một phương pháp điều trị các triệu chứng (chứ không phải để ngăn ngừa các triệu chứng) sau khi tiêm chủng. Do đó, việc sử dụng ibuprofen và paracetamol ở trẻ em để điều trị các triệu chứng phát sinh sau khi tiêm chủng có hiệu quả mà không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch khi tiêm chủng. Trong số ít nghiên cứu được thực hiện ở người lớn, không có aspirin liều thấp hoặc paracetamol dự phòng ảnh hưởng đến phản ứng với một số vắc-xin nhất định.

  • Vai trò của nhân viên y tế

Các triệu chứng phản ứng là một biểu hiện của phản ứng miễn dịch dự kiến ​​xảy ra để đáp ứng với tiêm chủng. Tuy nhiên, trải nghiệm của các triệu chứng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, nhiều yếu tố có thể được giảm bớt bằng cách giáo dục người nhận vắc xin, cung cấp môi trường thích hợp để tiêm chủng và sử dụng các phương pháp tiêm tốt. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đóng một vai trò không thể thiếu trong những nỗ lực này.

Mặc dù chúng ta biết rằng mức độ viêm nhất định là cần thiết để kích hoạt phản ứng miễn dịch thích ứng hiệu quả, nhưng chúng ta vẫn chưa biết cách định lượng mức độ đó hoặc dự đoán cách điều này chuyển thành khả năng phản ứng. Các công nghệ mới bao gồm hệ thống sinh học đang cung cấp những hiểu biết mới về phản ứng miễn dịch sớm với tiêm chủng. Điều này và khả năng xác định các dấu ấn sinh học liên quan đến khả năng sinh phản ứng, sẽ cho phép hiểu thêm về các mối liên hệ giữa tính sinh miễn dịch và tính sinh phản ứng. Trong tương lai, điều này có thể cho phép phát triển các loại vắc xin ít phản ứng hơn, hoặc thậm chí xác định những cá nhân nào có khả năng gặp các triệu chứng nghiêm trọng hơn sau khi tiêm chủng.

Trân trọng cảm ơn!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *